Làm khách giàn khoan
Nghe tôi đề nghị ngành dầu khí tạo điều kiện để được lên tàu Bình Minh 2, cùng “ra khơi thăm dò”, ông Đinh La Thăng – Chủ tịch Tập đoàn Dầu khí VN – can ngay: “Không đi với Bình Minh 2 để ra khơi được đâu, nhưng đi giàn khoan thì được”. |
Đó là con tàu của Công ty cổ phần dịch vụ khai thác dầu khí (PTSC) mang tên FSO Bạch Hổ. Từ con tàu có sức chứa 150 ngàn tấn dầu này (tương đương với 1 triệu thùng dầu), có thể phóng tầm mắt ra khắp một vùng rộng lớn, nơi giăng mắc cơ man các giàn khoan dầu khí thuộc mỏ Bạch Hổ. Đây là một trong những mỏ dầu có trữ lượng lớn và được phát hiện từ trước ngày giải phóng miền Nam, nhưng đến sau năm 1975 mới đưa vào khai thác thương mại. Mỏ Bạch Hổ mang lại cho ngân sách quốc gia mỗi năm lên đến 5 tỉ USD từ việc khai thác dầu thô, đủ để xây 2 nhà máy lọc dầu ở Dung Quất!
Khách lạ lên tàu
Sân bay Vũng Tàu là cảng hàng không lạ nhất mà tôi chưa từng gặp bao giờ. Chỉ có mỗi một loại máy bay trực thăng, không thấy loại máy bay nào khác. Không có cảnh người đưa tiễn hay chờ đón người nhà. Chỉ có những chiếc ôtô 16-24 chỗ ngồi đỗ xịch trước sân ga cho khách xuống xe, rồi vội vã chạy vù đi chở lượt khách khác. Khách làm thủ tục để vào phòng chờ, chỉ “bị” kiểm tra an ninh chứ không phải kiểm tra vé. Thực ra, nhân viên kiểm tra ở đây cũng không quá “gắt” như các sân bay khác, vì khách lên máy bay đều là khách quen – cán bộ, chuyên gia làm trong ngành dầu khí, ra các giàn khoan để đổi ca. Chỉ có tôi là “khách lạ”, lẫn giữa một rừng người nơi phòng chờ và lẫn giữa 26 nhân viên của PTSC trên chiếc máy bay trực thăng của Công ty dịch vụ bay Miền Nam.
Nhìn trang phục tôi mặc trên người với máy ảnh lủng lẳng trên vai, kỹ sư Nguyễn Hữu Quang – bạn đồng hành trên chuyến bay – hỏi: “Hình như anh không phải là người của dầu khí?”. Tôi gật đầu xác nhận. “Vậy, anh ra giàn khoan (dân dầu khí quen miệng, hễ lên máy bay ra các mỏ dầu đều được gọi chung một cái tên là ra giàn khoan) có việc chi?”. Tôi ỡm ờ: “Ừ, thì cũng… đi chơi ấy mà”.
Nghe giọng Quảng của tôi, Quang không buông: “Em cũng là dân Mộ Đức – Quảng Ngãi đây ông anh ơi! Ông anh “khai” thiệt đi, ra giàn khoan để… chụp ảnh à? Nếu thế thì cất ngay máy ảnh vô túi, ra đó tha hồ chụp, chứ bây giờ mà thò ra thụt vào như vậy, cánh quạt máy bay nó hất văng cả máy lẫn người luôn đó!”. Tôi vội cất máy ảnh vào túi theo lời khuyên của Quang và bắt đầu leo lên máy bay trong tiếng động cơ đinh tai, tiếng gió rít buốt óc từ các cánh quạt.
Dù đã được xem qua một đoạn video clip ở phòng chờ, nói về cách “ứng phó” khi máy bay trực thăng gặp sự cố, như rơi tòm xuống biển chẳng hạn, rồi được mặc một bộ đồ bảo hiểm với dây nhợ nhùng nhằng và cả mũ chống tiếng ồn, nhưng khi chiếc máy bay cất cánh để bay ra biển ở độ cao ngàn mét, lòng tôi lại rộn lên một nỗi bất an. Cho đến khi chiếc máy bay bắt đầu giảm tốc độ, bãi đỗ cũng rõ dần, nhất là khi tận mắt nhìn thấy những giàn khoan khổng lồ lô nhô trước mặt thì sự háo hức bắt đầu chiếm chỗ cho những lo sợ vu vơ. Tôi nhìn đồng hồ: 8 giờ 35 phút. Vậy là, phải mất 35 phút cho quãng đường 145km từ bờ biển Vũng Tàu để ra giàn khoan.
“Nhập gia” tàu khủng
Kỹ sư Lê Viết Xuân Bằng – máy trưởng của tàu FSO Bạch Hổ – “sơ yếu lý lịch” về con tàu này: “Tàu do Nhà máy đóng tàu Nam Triệu đóng mới, đưa vào sử dụng năm 2009. Mang tiếng là tàu nhưng chức năng của nó như một kho chứa dầu nổi, gọi là tàu không bến. Các giàn khoan trong mỏ Bạch Hổ, sau khi lấy dầu từ các giếng sẽ bơm trực tiếp về con tàu này. Nước biển lẫn với dầu được tách ra, sau đó bơm dầu về các con tàu đến mua dầu. Mỗi tuần có 2 tàu đến “ăn” dầu. Tàu của PVTrans vẫn thường lấy dầu tại đây để chở về Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Đây không phải là “tàu chạy” nhưng vẫn hoạt động 24/24h, do vậy, 35 cán bộ kỹ thuật cũng như nhân viên phục vụ trên tàu cũng “nổ máy” suốt ngày đêm, dĩ nhiên là chia làm hai ca…”.
Nam Triệu – cái tên tôi nghe “quen quen”, hình như nhà máy này thuộc Tập đoàn Vinashin thì phải? Đây cũng là nhà máy mà đóng đến 7 con tàu trị giá gần 200 triệu USD nhưng không nơi nào mua, lại còn bị khách hàng nước ngoài trả lại, góp phần nhấn chìm “con tàu Vinashin” dạo nào? Kỹ sư Bằng xác nhận điều đó, nhưng một lần nữa khẳng định rằng FSO Bạch Hổ này là một trong những con tàu “khủng” hiện nay do chính Nam Triệu đóng mới. Nói rồi anh chỉ lối xuống cầu thang bãi đỗ máy bay: “Nhà báo cứ theo lối này mà vào bên trong con tàu, khắc biết nó thế nào!”.
Anh Cao Văn Thắng – người được lãnh đạo PTSC giao làm “hướng dẫn viên” trong thời gian tôi ăn nhờ ở đậu ngoài giàn khoan – bước đi thoăn thoắt như một chú sóc trong rừng. Thắng thuộc từng… con ốc của chiếc tàu mười lăm vạn tấn này, còn tôi thì lơ ngơ như người nhà quê lần đầu ra phố. Sau một hồi lên lên xuống xuống cầu thang với đủ các ngóc ngách, Thắng đưa tôi vào một phòng ở cuối tầng 5 của con tàu, nói: “Đây là phòng của anh, không phải khoá. Cần gì, anh cứ alô, sẽ có người đến giúp”.
Đi được một quãng, như sực nhớ ra cái điều không thể quên dặn cho vị khách “vô tích sự” là tôi, Thắng quay ngoắt lại: “Mà anh nhà báo nè, trong phòng có bộ quần áo “đồng phục” của PTSC đấy, hễ có báo động cháy, anh mặc bộ đồ ấy vào và đến cuối dãy nhà này sẽ có người đón anh”. Tôi thầm nghĩ: Chưa chi đã “doạ” nhau rồi. Hèn chi, tại cửa kiểm soát ở sân bay, đến cái máy lửa gas cũng bị tịch thu. Ra mỏ dầu có khác.
Tôi bước vào phòng của mình, việc đầu tiên là nhìn xem bộ “đồng phục” mà Thắng dặn dò ấy đang treo ở chỗ nào để nhỡ có sự cố thì khỏi lúng túng, thứ hai là tìm… nước tắm. Ngại nhất là phải “kiềm chế” những thứ mà mình luôn được “thoải mái” ở đất liền. Hoá ra con tàu này chẳng khác nào như một khách sạn cỡ 3 sao. Nó được trang bị không thiếu bất cứ một thứ gì, trừ một vài cái thiếu mà tôi sẽ đề cập ở phần sau.
Nhìn về “thành phố dầu”
Thợ máy trên tàu.
|
Tàu “khủng” là thế, nhưng dạo quanh… một buổi là hết chuyện. Trước khi tham quan “giàn khoan” khổng lồ này, kỹ sư Thắng đưa tôi đến gặp trưởng tàu – ông Alan, một người Ấn Độ – để xin phép. Biết tôi là nhà báo, Alan OK ngay nhưng dặn dò kỹ lưỡng: “Anh mặc đồ bảo hiểm vào thì mới được đi ra ngoài boong, đi đâu cũng phải có người đi cùng”.
Nói đoạn, ông bảo Thắng trao cho tôi… một cục sắt, giống chiếc máy bộ đàm, đeo ngay vào túi áo ngực, dặn tiếp: “Nếu nghe cục sắt này tút tút liên hồi là không nên đi tiếp mà quay trở lại. Đó là vùng có khí độc. Thế thôi”. Tôi “bỏ rơi” ngay anh chàng dẫn đường và tự đi một mình, nhưng luôn cảnh giác với âm thanh phát ra từ chiếc hộp sắt đeo túi áo ngực. Không có một âm thanh nào “nguy hiểm” cả, chỉ có tiếng sóng biển rì rào, tiếng máy bay trực thăng quần thảo trên vùng trời Bạch Hổ để đưa và đón công nhân ở các giàn khoan.
Tôi chui vào nhà bếp và xin phép bếp trưởng Trần Ngọc Tứ lục hết các tủ lạnh để xem 35 con người ở đây sẽ phải ăn uống như thế nào trong 28 ngày sắp tới. Tứ cười rung bếp: “Không thiếu gì đâu anh, chỉ có đàn bà là thiếu thôi!”. Đúng là không thiếu một thứ gì thật. Từ rau – củ – quả cho đến sữa – thịt – bơ, đủ cả. Nhưng đàn bà thì đành “nhịn” vậy. 35 ông “đực rựa”, toàn thanh niên hừng hực thế này, 28 ngày sau mới được về nhà, thấy một bóng hồng nào lởn vởn trên tàu, có mà loạn! Là nói cho vui thế thôi, thời gian đâu mà nghĩ đến đàn bà con gái.
Họ làm gần như suốt đêm, mỗi ca trực 12 tiếng, chỉ nghỉ được 30 phút để ăn giữa ca và … hút thuốc lá tơi bời. Có lẽ đó là phần “tiêu cực” nhất ở nơi này, dù trên giàn hay tàu đều có phòng dành riêng để hút thuốc. “Ở đây, chỉ được có mỗi cái hút thuốc là sướng, giờ cấm nữa, chắc xin nghỉ luôn, anh ơi!” – một “con nghiện” đã nói như vậy. Cũng là vui mà nói thế thôi, còn một cái “sướng” nữa mà anh nào cũng giấu nhẹm: Lương cũng “khủng” như con tàu này!
Đêm trên biển như thể dài ra. Tôi có cảm giác như mình đang gặp một góc Sài Gòn sáng bừng trước mặt. Đấy là “thành phố dầu” giữa biển. Các giàn khoan vẫn hoạt động một cách miệt mài, cần mẫn và cũng thật bình yên, như thể không hề biết rằng biển Đông đang từng hồi “dậy sóng”.
(Theo Lao Động)